Tục thờ cúng gia tiên của người Việt Nam có từ rất lâu đời. Đó là một phong tục đẹp, giàu bản sắc, có tính chất giáo dục truyền thống từ bao đời nay. Bản thân phong tục thờ cúng tổ tiên đã mang những giá trị văn hóa nhân văn. Bên cạnh tục thờ cúng tổ tiên, tục thờ “thần làng”, “anh hùng vương” cũng là phong tục lâu đời của người Việt Nam ta. Trong khuôn khổ bài viết này, nhóm chúng tôi sẽ làm rõ những hủ tục này qua chủ đề: “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt? Ý nghĩa của việc thờ “thần làng” và thờ “anh hùng vương” là gì?
1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt:
1.1. Khái niệm niềm tin:
Niềm tin là hệ thống niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế giới và mang lại hòa bình cho cá nhân và cộng đồng. Creed đôi khi được hiểu là một tôn giáo. Sự khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo là tín ngưỡng mang tính quốc gia hơn tôn giáo, tín ngưỡng có tổ chức không chặt chẽ như tôn giáo. Nói đến tín ngưỡng, người ta thường nói đến tín ngưỡng của một dân tộc hay một dân tộc có những đặc điểm chung trong khi tôn giáo đó không mang tính quốc gia. Tín ngưỡng không có hệ thống tổ chức hành chính như tôn giáo, nếu có thì hệ thống này cũng rời rạc, manh mún. Đức tin nếu phát triển đến một mức độ nhất định có thể trở thành một tôn giáo
Bạn đang xem: Phong tục tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam
1.2. Vì sao người Việt thờ cúng tổ tiên?
Tổ tiên, theo quan niệm của người Việt Nam, trước hết là những người cùng dòng tộc như cha, mẹ, ông, bà, cố, kỵ… đã sinh ra mình. Tổ tiên cũng là những người có công tạo dựng nên cuộc sống hiện tại như “Thành hoàng làng” và “Nghệ thuật tổ tiên”. Không chỉ vậy, các bậc tiền nhân còn là những người có công bảo vệ xóm làng, quê hương, đất nước khỏi giặc ngoại xâm như Trần Hưng Đạo đã trở thành “Cha” được tổ chức cúng giỗ vào tháng 8 âm lịch hàng năm. “Tháng Tám Giỗ Cha” diễn ra ở nhiều nơi trong cộng đồng người Việt. Thậm chí, “Thành hoàng” của nhiều làng không phải là người lập làng mà có khi là người có công với nước được người xưa tôn là “thần”. Tổ tiên trong tín ngưỡng của người Việt cũng chính là “Mẹ Âu Cơ”, cũng như “Vua Hùng” đã sinh ra muôn dân tộc trong đại gia đình Việt Nam.
* Cơ sở tinh thần: Cơ sở quan trọng đầu tiên để hình thành bất kỳ tôn giáo, tín ngưỡng nào là quan niệm tinh thần của con người về thế giới. Cũng như nhiều dân tộc khác, người Việt xuất phát từ quan niệm “vạn vật hữu linh” – vạn vật đều có linh hồn, và bắt đầu từ thế giới tự nhiên xung quanh mình, và linh hồn trở thành tâm điểm của tín ngưỡng. Từ quan niệm này đã hình thành tín ngưỡng về sự tồn tại của linh hồn và mối quan hệ giữa người chết và người sống (cùng huyết thống). Người chết có hồn hiện về chứng giám, theo dõi hành vi của con cháu, quở trách hoặc phù hộ độ trì cho họ. Bên cạnh lý do tin vào người đã khuất, ý thức tôn kính cội nguồn, lòng hiếu thảo của người Việt cũng là cơ sở quan trọng để hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Con cháu bày tỏ lòng biết ơn đối với cha mẹ, những người đã khuất và còn sống, đồng thời cũng thể hiện trách nhiệm liên tục và lâu dài của con cháu đối với nhu cầu của tổ tiên. Trách nhiệm không chỉ thể hiện ở những hành vi sống (giữ gìn danh dự và nối tiếp truyền thống gia đình, dòng tộc, đất nước) mà còn thể hiện ở những hành vi hy sinh cụ thể. Từ đó tục thờ cúng tổ tiên dần hình thành.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên tồn tại ở nhiều dân tộc ở Đông Nam Á, nhưng vẫn được coi là tín ngưỡng đặc trưng của người Việt Nam bởi tính phổ biến trong cộng đồng, hầu như trong tất cả các gia đình Việt Nam đều có bàn thờ tổ tiên.
Người phương Đông đã quen với tâm lý duy tâm, nhưng biểu hiện này của người Việt Nam càng sâu sắc hơn. Người ta vừa đau đáu quan niệm “người sống vì mồ mả, kẻ sống vì bát cơm” mong nhận được “phúc tổ” mà gánh lấy trách nhiệm phù hộ cho con cháu. Như vậy, cúng gia tiên, một mặt người ta hướng về quá khứ, hướng về hiện tại (giáo dục truyền thống gia đình, đạo đức cho con cái), mặt khác chuẩn bị cho tương lai.
Thờ cúng tổ tiên có nội dung đơn giản, thiết thực, không cực đoan như nhiều tôn giáo khác. Thờ kính tổ tiên, thế hệ trước làm gương cho thế hệ sau không chỉ vì trách nhiệm với cha mẹ mà còn để giáo dục, dạy dỗ con cháu nối dõi tông đường. Trong lễ tế, lời khấn của họ cũng rất đơn giản và thiết thực: cầu sự che chở, phù hộ để cuộc sống hàng ngày của họ được bình an, thanh thản. Không biết hiệu quả của lời khẩn cầu này đến đâu nhưng trên hết, con người cảm thấy bình yên về mặt tinh thần, điểm tựa tinh thần quan trọng cho cuộc sống. Do đó, khả năng lan tỏa của tín ngưỡng này trong không gian và thời gian cũng là điều dễ hiểu.
Cơ sở xã hội: Khi bước vào chế độ phụ hệ, vai trò của người đàn ông trở nên quan trọng trong hoạt động kinh tế và sinh hoạt gia đình. Con cái mang họ cha, con kế có quyền hành trong gia đình. Thờ cúng tổ tiên ra đời từ đó.
Không chỉ chịu ảnh hưởng của chế độ phụ hệ, tục thờ cúng tổ tiên còn chịu ảnh hưởng của ba dòng tôn giáo lớn ở Việt Nam. Đó là những gì để nói:
Nho giáo: Theo Khổng Tử, cuộc sống của con người không phải do tạo hóa tạo ra chứ đừng nói là do chính mình tạo ra, mà là thông qua cha mẹ, cuộc đời của cha mẹ gắn liền với ông bà và cứ thế từ đời này qua đời khác, để thế hệ sau phải biết ơn ông bà. thế hệ trước. Cùng với tư tưởng trọng thần quân tử, quyền cha kính mẹ đã củng cố tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở nước ta ngày càng được thể chế hóa.
Đạo giáo: Trong khi Nho giáo đặt cơ sở lý luận về đạo đức và trật tự xã hội cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt thì Đạo giáo giúp củng cố niềm tin vào sự tồn tại và bản chất siêu nhiên của linh hồn người chết thông qua một số tục thờ cúng như cầu hồn, bùa chú, ma chay. ma chay, tảo mộ và đốt vàng mã. Phật giáo: Phật giáo có ảnh hưởng lớn đến việc bảo tồn và phát triển tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam, trước hết là quan niệm về cái chết, luân hồi và nghiệp báo của Phật giáo. Những tư tưởng cơ bản của Phật giáo đã có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt, nhưng không phải vì thế mà ảnh hưởng. Người Việt tin rằng cha mẹ tổ tiên luôn lo lắng và chăm sóc con cái của họ ngay cả khi họ qua đời. Người sống lo cho linh hồn người chết, linh hồn người chết sẽ lo cho cuộc sống của người sống.
2. Bản chất của sự thờ phượng:
2.1. Thờ cúng tổ tiên để tưởng nhớ tổ tiên:
Tính hợp lý là đặc trưng của cuộc sống Việt Nam. Vì vậy, trong gia đình, hình ảnh của người đã khuất luôn hiện hữu và không tách rời khỏi cuộc sống của các thành viên trong gia đình và làng xóm. Chết không phải là mất tất cả mà là một dạng chuyển hóa vật chất từ dạng này sang dạng khác, đồng thời tổ tiên cũng tồn tại trong một thế giới siêu hình mà con người không nhìn thấy được. Trong gia đình, bàn thờ là nơi con cháu lưu giữ những hình ảnh thân thuộc nhất của những người đã khuất. Việc cúng lập lại như một công việc quen thuộc, đánh thức trong lòng con cháu những ký ức về tiền nhân.
2.2. Nhắc nhở về cội nguồn:
Với đạo lý uống nước nhớ nguồn, thành tâm thờ cúng tổ tiên xuất phát từ lòng hiếu thảo, ghi nhớ từ ơn sâu nghĩa nặng đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người từ thuở ấu thơ:
Cây có gốc mới nở cành xanh,
Nước có nguồn mới vực rộng, sông sâu.
Mọi người đến từ đâu?
Có cha và mẹ, và sau đó là tôi.
3. Hình thức thờ cúng:
3.1. Cúng thường: Người Việt thường cúng tổ tiên vào ngày Sóc
– Vọng (Sóc là ngày mồng một của tháng, Vọng là ngày rằm mỗi tháng), lễ tết, sinh nhật hay bất cứ thời điểm nào cần được tổ tiên phù hộ như sinh nở, đẻ con, cưới xin, dựng nhà nhà cửa, lập nghiệp, sức khỏe có vấn đề. Đó là cách thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Trong phong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt Nam rất coi trọng ngày giỗ (còn gọi là giỗ) thường được tính theo âm lịch (còn gọi là ta ngày). Họ tin rằng đó là ngày con người bước vào cõi vĩnh hằng. Không chỉ có ngày giỗ, tục thờ cúng tổ tiên còn được tổ chức thường xuyên vào ngày đầu năm (còn gọi là Ngày sóc), ngày rằm (còn gọi là Ngày vọng) và các ngày Tết khác trong năm như: Tết Nguyên đán. Tết Nguyên đán, Tết Hàn thực, Tết Trung thu, Giao thừa, Giao thừa, v.v. Khi có việc hệ trọng trong nhà như cưới vợ, sinh con, làm nhà, xuất hành, thi cử…, người Việt cũng dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo hiệu, cầu xin tổ tiên phù hộ, hay cho. cảm ơn khi công việc thành công. Bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt xuất phát từ niềm tin rằng người sống và người chết gắn bó với nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Con cháu thăm viếng, khấn vái tổ tiên. Tổ tiên che chở, dìu dắt hậu thế nên cúng giỗ là sự giao lưu giữa cõi dương và cõi âm.
Đây là một nghi lễ vô cùng quan trọng, bởi tưởng nhớ ông bà tổ tiên là thể hiện lòng thành kính với vong linh những người đã khuất, dù là ngày giỗ lớn hay nhỏ. Chỉ với một cốc nước, một quả trứng và một nén nhang, họ vẫn có thể giữ đạo hiếu.
3.2. Phương pháp nghi lễ:
Nghi thức cúng: Trước khi tiến hành lễ cúng, gia chủ phải tắm qua nước rau thơm. Sau đó, người thực hiện cúng bái mặc quần áo thường, trang phục gia chủ mặc có màu trắng. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại ngày nay, chỉ cần ăn mặc chỉnh tề là đủ và người ta ít chú trọng đến việc ăn mặc như thế nào khi đi lễ cúng.
Cách cúi đầu:
Xem thêm : Cúng tết Hàn thực năm 2023 nên kiêng kị điều gì?
Wai thường được áp dụng khi đứng, đặc biệt là tại các lễ kỷ niệm ngoài trời. Vai thay cho lễ lạy trong trường hợp này. Nó bao gồm việc chắp hai tay trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi nghiêng đầu và cúi xuống rồi ngước lên, hạ hai tay xuống theo nhịp cúi người lên trên. Tùy trường hợp người ta làm 2, 3, 4 hoặc 5 cung.
Cúi đầu là hành động thể hiện sự thành tâm cung kính bằng cả tâm hồn và thể xác của mình đối với cấp trên hoặc người đã khuất đối với cấp trên của mình. Có hai lễ lạy: lễ lạy của nam giới và lễ lạy của nữ giới. Có bốn trường hợp lạy: 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy và 5 lạy. Mỗi trường hợp có một ý nghĩa khác nhau.
Nam và nữ có tư thế ngả lưng khác nhau. Cúi chào của nam giới là cách đứng trong tư thế trang nghiêm, chắp hai tay trước ngực đưa lên ngang trán rồi khom người xuống, hai bàn tay chắp sát vào chiếu hoặc nền nhà rồi xòe ra. hai tay để đặt, nằm sấp, đồng thời quỳ gối trái rồi gối phải xuống sàn, cúi đầu sát hai tay ở tư thế nằm sấp. Sau đó nhấc lên đồng thời đưa hai bàn tay vào nhau để đưa đầu gối trái lúc này đang khuỵu về phía trước tại đầu gối quỳ bên phải để lấy đà nhấc lên, chân quỳ bên phải cũng theo đà. bằng chân trái, vào tư thế nghiêm như lúc đầu. Cứ như vậy, cứ lạy theo số cung (xem phần Ý nghĩa-Ý nghĩa của các Cúi lạy bên dưới). Nói xong thì lạy ba lạy rồi ra về.
Bạn có thể quỳ bằng chân phải hoặc chân trái trước, tùy theo bạn thích chân nào thì quỳ trước. Một điều nên nhớ là khi mới quỳ xuống, khi chuẩn bị đứng dậy, bạn hãy đưa chân đó ra phía trước nửa bước và đặt hai bàn tay chắp vào đầu gối đó để đứng dậy. Vì vậy lễ lạy theo cách này rất khoa học và ổn định. Lý do quỳ gối trước là chân phải thường khỏe hơn nên dùng để giữ thăng bằng tránh bị ngã. Điều tương tự cũng xảy ra khi bạn chuẩn bị thức dậy. Sở dĩ chân trái cong về phía trước là ổn định vì chân phải có tư thế chuẩn vững chắc hơn. Tư thế dành cho nữ là ngồi trên sàn sao cho hai chân bắt chéo sang bên trái, bàn chân phải nâng lên để dưới đùi trái. Nếu bạn mặc áo dài, hãy kéo vạt áo phía trước cho gọn gàng và kéo vạt áo sau để che đi phần mông cho đẹp. Tiếp theo, chắp hai tay trước ngực và đưa lên trán, giữ hai tay ở tư thế cong này và cúi đầu xuống. Khi đầu gần chạm đất, đưa hai tay úp xuống và tựa đầu lên hai tay. Giữ tư thế này trong một hoặc hai giây, sau đó dùng hai tay đẩy người lên thành tư thế ngồi thẳng, đưa hai tay lại gần nhau và đưa lên trán như lần đầu. Cứ như vậy lạy cho đủ số lạy (xem ý nghĩa các lạy bên dưới). Lạy xong, đứng dậy vái ba lạy rồi đi hoàn lạy.
Cũng có chị em áp dụng tư thế ngả lưng bằng cách quỳ trên chiếu, đặt mông lên gót chân, hai tay chắp lại đưa lên quá đầu, sau đó giữ nguyên tư thế này và cúi đầu, khi thì đầu khép lại, khi thì chạm vào chiếu. , duỗi thẳng tay, úp mặt xuống thảm rồi gối đầu lên tay. Tiếp tục cúi đầu theo cách tương tự như mô tả ở trên. Kiểu lễ lạy này có thể làm ngón chân và đầu gối bị thương và trông không đẹp mắt cho lắm. Cách văn khấn tổ tiên: Lời chúc là lời tâm sự với người đã khuất, nên lời chúc là tấm lòng của người còn sống. Bạn có thể cầu nguyện bất cứ điều gì bạn muốn.
Buổi lễ gồm các thủ tục sau:
– Sau khi đặt mâm xong, tộc trưởng ăn mặc chỉnh tề (trước đây khăn đóng áo dài) ra mở cửa chính. Ở xứ lạnh, bạn nên cố gắng mở cửa nhưng không được đóng chặt.
– Thế thì phải khấn nước Thành Hoàng Thổ không khó để Linh về chung vui giỗ Tổ. Và đây là một lời cầu nguyện lỗi thời:
Duy…..quê…..Tỉnh/Thành phố xa…. trang/nhà tại… (số nhà). Lịch Việt thứ 488…, thử ngày… (âm lịch) hủy ngày của gia/mẫu/Tằng Tổ, v.v. là Hiền Khoa/Bi, thành hoàng thổ địa, thổ thần, chủ cũ đón cha/mẹ/mẹ v.v. (hôm nay giỗ) đồng bái Tào Trạch tổ, Cao Tăng tổ, tử đạo tổ, Hiên tổ, Hiên tổ, sư tỷ di, cho đến ông nội và ông nội Đổng Giai Lâm, ngồi dưới đất làm chứng. . Cáo thận trọng. Đồ cúng gia tiên: Thịt động vật cúng gia tiên là loại động vật được người dân coi là “thịt sạch”. Kết quả là những con vật có đặc tính xấu bị loại bỏ trong lễ hiến tế. Ví dụ: con chuột tương ứng với loại người chuyên khắc, con rắn độc tương ứng với hình ảnh của một người độc ác, con vịt lạch bạch không bay xa là so sánh của người chậm chạp… cá trê, cá trê, lươn, vân vân. vỏ trấu v.v… không được coi là của lễ trong sạch vì chúng sống trong bùn nhơ bẩn thỉu hoặc mang màu đen của tang tóc. Chó – loài vật nuôi vô cùng gần gũi với con người, nhưng thức ăn của chó lại bị coi là ô uế, do chó ăn phải chất thải không được dùng trong tế lễ.
Con vật dùng để cúng gà, lợn là lễ vật quan trọng của người Việt trong mọi nghi lễ: tục cúng gia tiên, thổ thần, thổ thần, cúng trời đất… Người Việt còn dùng cá để cúng. cúng, loài cá được coi là sạch, cúng thường xuyên là cá trắm, cá trắm
Trái cây cúng gia tiên mà gia đình trồng trọt được cũng vậy. với ý nghĩa tôn vinh tổ tiên bằng thành quả lao động của mình
Ý nghĩa sâu xa hơn của sự thờ phượng là đạt đến đỉnh cao của Chân-Thiện-Mỹ. Thờ cúng không cần cầu kỳ, quan trọng là thành tâm
3.3. Bàn thờ Tổ tiên:
Trong các gia đình Việt Nam thường có bàn thờ ông bà tổ tiên (còn gọi là ông Vải). Tùy từng nhà mà cách bài trí, bài trí bàn thờ có khác nhau. Biển, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai cây đèn tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng và hương án là tinh tú. Hai bát hương để đối xứng, phía sau hai ngọn đèn thường cắm hai cành hoa cúc giấy, xung quanh cành lớn có nhiều bông hoa nhỏ. Cũng có nhà “cành vàng lá ngọc” (một loại hàng mã) với hy vọng hái ra quả vàng bạc, làm ăn lãi gấp 5, 10 lần năm trước. Ở giữa là trục “vũ trụ” là một miếng hương án hình khuỷu tay vươn lên bát hương. Nhiều gia đình đặt giữa đèn và hương án hai đĩa để đặt mâm quả gọi là mâm ngũ quả (tùy loại quả mà mỗi loại quả có ý nghĩa riêng), phía trước bát hương để một bát hương. nước trong vắt, được coi là nước thiêng. Hai cây gậy đặt hai bên ban thờ được các cụ già chống gậy đi theo con cháu, dẫn dắt linh hồn ông bà tổ tiên từ trời xuống đất…
Bàn thờ tổ tiên luôn được đặt ở nơi cao ráo, sạch sẽ và trang trọng nhất trong nhà (gian giữa đối với nhà một gian, gác thượng đối với nhà hai gian). Trên bàn thờ có bát hương, chân đèn, bài vị hoặc di ảnh của người đã khuất và nơi thắp nến. Lễ vật cơ bản không thể thiếu hương, hoa, ly nước. Ngoài ra, có thể có thêm thức ăn, trà rượu, đôi khi có cả đồ vàng mã (quần áo và đồ dùng bằng giấy), tiền âm phủ… Sau nửa tuần thắp hương là đồ vàng mã, tiền âm phủ. được gọi là mạ vàng, và chén rượu đã dâng được rót trên tro vàng. Tục truyền rằng người đã khuất phải làm như vậy mới được nhận đồ cúng tế, vì hương khói bốc lên trời, nước (rượu) hòa với lửa thấm vào đất.
Chiếc rương thật to, cao khoảng 1m, dài 2m, rộng 2m. Mặt trước gồm ba ô, mỗi ô được khắc một chữ tri (大佀). Đôi khi, chiếc rương được thay thế bằng một chiếc bàn lớn, tựa trên 2 chiếc hộp (1m). Có 2 mâm đặt bên trong bàn thờ. Mâm lớn đựng tiệc, mâm nhỏ bày hoa ngày giỗ. Cái thứ 2 phải nhỏ hơn cái thứ nhất. Có một vị chúa đặt trong bàn thờ trên bệ. Có thể thay bằng ngai thờ (ngai vàng) để các bậc tiên tổ cao điều khiển con cháu thờ phụng. Trước thần thường có đĩa đựng trầu cau, 3 chén nước trong, chén (hoặc bình) rượu nhỏ, hai bên đặt đĩa đồng hoặc sứ để đựng trái cây, đồ cúng v.v. Bên trong đặt bài vị bằng sứ, có thể thay bằng ảnh chân dung của người đã khuất, có thể treo ở vách hậu hoặc đặt trên bàn thờ.
Hình phạt rất cao. Một lư đồng lớn bằng sứ hoặc bằng đồng đựng cát hoặc tro cốt, ở giữa có trụ sắt cao để đặt vòng hương. Hai bên có hai ngọn đèn thắp sáng khi thờ. Hai cây đồng để thắp nến, có thể thay bằng 2 con hạc đồng. Đồng có thể thay bằng sành sứ.. Có thể bài trí nhiều đồ vật như hoành phi, câu đối… ở chính giữa bàn thờ hoặc hai bên. Thắp hương trên bàn thờ luôn thắp theo số lẻ: 1, 3, 5 , 7, 9, 11,… nhưng tránh thắp các số chẵn như 2, 4, 6, 8, 10, v.v. Số lẻ được coi là số dương nên phù hợp hơn với tổ tiên (người dương thắp sáng người ít). Loại hương thẳng gồm 2 phần: phần gốc màu đỏ hồng, mùi thơm bụi. Có loại vòng hương gồm nhiều vòng hương, buộc bằng dây, đặt trên que sắt đặt trong bình hương. Khi thắp hương, mọi người nên giữ hương thẳng, tránh để nghiêng, méo, cắm quá nhiều làm cho ngọn lửa giữa các cây hương không đều nhau, dễ gây cháy hương, hương bị đổi màu, có thể gây cháy đồ vật. lễ vật trên bàn thờ hoặc đốt lửa. Khi thắp hương, có thể chiếm chỗ nếu cần.
Bàn thờ của người chết mới
Người mới mất không thờ chung với tổ tiên mà có thể lập bàn thờ riêng ở gian ngang hoặc gian nhà. Sắp xếp tương đối cơ bản: bát hương, bài vị (hoặc ảnh), bình hoa, chén nước, đèn… Trong vòng 100 ngày (kể từ ngày cải táng), người dân thắp hương, cơm canh trước khi đưa tang. . gia đình dùng bữa, mời người mới khuất cùng thưởng thức. Lúc này, hồn người chết vẫn còn quyến luyến người thân, “hồn nặng” không thể siêu thoát, vẫn quanh quẩn trong nhà. Những người đang sống không muốn tin rằng mình vừa mất đi một người thân yêu, làm thế để vơi đi nỗi đau buồn. Nhưng có nơi chỉ thờ 49 ngày (tức là lễ đình làng).
Sau 49 ngày, bát hương của người đã khuất sẽ được bốc lên bàn thờ gia tiên. Sau khi làm lễ trừ tà (còn gọi là lễ cấp sắc), bàn thờ người đã khuất sẽ được dọn đồ thờ riêng, đặt di ảnh chân dung và bát hương lên bàn thờ gia tiên, thứ tự trên dưới. Nếu không có bàn thờ tổ tiên thì giữ nguyên, chỉ bài vị tổ tiên trên bàn thờ tổ tiên. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở làng quê của người Việt
4. Sự khác biệt giữa tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam với một số nước trong khu vực:
4.1. Các hình thức thờ cúng tổ tiên cơ bản:
Tại Nhật Bản: Thần đạo là tôn giáo bản địa của Nhật Bản. Thần đạo tôn thờ các vị thần. Thờ cúng Thần đạo cũng bao gồm thờ cúng tổ tiên. Thờ cúng tổ tiên ở Nhật Bản mang màu sắc Thần đạo. Trong những ngôi nhà truyền thống của Nhật Bản, luôn có một cabin Bustrudan ở giữa. Là điện thờ Phật nhưng người Nhật cũng đặt bàn thờ gia tiên. Ngoài việc lập bàn thờ gia tiên, hầu hết các gia đình Nhật Bản đều đặt tro cốt của người quá cố trong các ngôi đền. Vì vậy, ngoài việc thực hiện nghi lễ cúng tế tổ tiên tại nhà, họ còn tiến hành lễ cúng tại chùa. Lễ cúng gia tiên tại chùa do các sư thầy thực hiện theo yêu cầu của khách hàng. Trong các gia đình, vào ngày giỗ của họ, họ dâng lễ vật và đọc kinh trước bàn thờ Phật và bàn thờ gia tiên.
Ở Hàn Quốc: Căn cứ vào hình thức và đối tượng thờ cúng của người Hàn Quốc, có thể chia ra 3 hình thức thờ cúng tổ tiên cơ bản:
Xem thêm : Văn khấn rằm tháng 3 năm Quý Mão 2023 theo truyền thống Việt Nam
Kije: nghi thức tưởng nhớ những người vừa mới qua đời.
– Ch’arye: lễ tưởng nhớ những người thân đã khuất trong gia đình. Nghi lễ này được thực hiện vào buổi sáng của một số ngày lễ đặc biệt.
– Myojje: lễ tưởng niệm gần ngôi mộ. Nghi lễ này được thực hiện khi đi viếng mộ ông bà tổ tiên.
Việc bày trí các lễ vật trên bàn thờ cần có trình tự nhất định. Ví dụ, trái cây màu đỏ nên đặt ở phía đông và trái cây màu trắng nên đặt ở phía tây của bàn thờ. Tiếp đến là hàng thức ăn, rồi đến trái cây, rau củ, cháo và một số loại thịt, cá. Cuối cùng là bát cơm, hoặc đôi khi là cháo, với thìa và đũa. Phía trước bàn thờ cúng là bàn đặt bát hương, phía trước bát nhanh là khay đựng rượu.
4.2. Giờ cúng tổ tiên:
Nhật Bản: Do có tôn giáo, tín ngưỡng riêng nên lễ cúng tổ tiên chỉ được thực hiện vào một dịp nhất định trong năm. Từ trước đến nay, người Nhật thường tập trung tiến hành nghi lễ cúng tế tổ tiên vào nhiều dịp, tuy nhiên bài viết chỉ đề cập đến 3 dịp quan trọng nhất trong năm như:
Sinh nhật: Khác với các nước phương Tây coi trọng ngày sinh nhật, hầu hết các nước Đông Nam Á và Bắc Á đều coi trọng ngày mất của người trong gia đình, dòng tộc. Các nghi lễ cúng tế đều theo phong cách Thần đạo: “Ở Nhật Bản, lễ tưởng niệm gia đình rất đơn giản nhưng cũng rất trang nghiêm. Vào ngày giỗ, tất cả các thành viên trong gia đình phải đi tắm, làm lễ thanh tẩy bằng cách té nước (mishoghi)[2] hoặc vẫy cành cây xanh (sakagi) hoặc vẫy gậy thờ (musa). Những chuyển động này được thực hiện bên ngoài cửa. Không cúng tế cầu kỳ như ở Trung Quốc, có thể chỉ là một bài vị ghi tên cha mẹ, tổ tiên đã khuất, hoặc một chậu cây, một hòn đá tượng trưng cho những kỷ niệm của người đã khuất”.
Ngày đầu năm mới: Ngày đầu năm mới truyền thống của Nhật Bản diễn ra vào những ngày đầu tiên của tháng Giêng âm lịch. Đó là dịp diễn ra lễ hội lớn nhất trong năm và quan trọng nhất đối với mỗi gia đình Nhật Bản. Vào thời điểm trước Tết, tại các đền thờ Thần đạo, các thầy cúng làm lễ tẩy uế năm cũ cho người dân, còn ở từng nhà, gia chủ dọn dẹp, trang hoàng đón năm mới. . Trong quan hệ gia đình, người ta cũng thực hành lễ thanh tẩy, nhưng chỉ mang tính tượng trưng. Ngoài ra, họ còn dán những cành thông vào cổng và đan những sợi dây bằng rơm hoặc giấy để treo ở lối vào nhà.
Hàn Quốc: Tôn giáo bản địa của người Hàn Quốc là đạo Shaman. Theo quan niệm của người Hàn Quốc, các vị thần pháp sư cai trị trong tất cả các ngôi nhà của họ: “các vị thần bay lượn xung quanh và là một phần quan trọng trong cuộc sống của người Hàn Quốc như cơm và kim chi”. Hàng ngày, người Hàn Quốc vẫn thực hiện nghi lễ Kosa để thờ cúng các vị thần, cầu xin họ phù hộ. Lễ cúng tổ tiên ở Hàn Quốc chỉ mang tính chất tưởng nhớ nên diễn ra lẻ tẻ mà chỉ thực hiện vào một số dịp nhất định trong năm như:
Ngày giỗ: Ở Hàn Quốc, ngày đó là ngày giỗ gọi là Kije, được tổ chức vào ngày mất với mục đích tưởng nhớ những người đã khuất. Trước đây, nghi lễ này được thực hiện vào lúc nửa đêm trước ngày giỗ. Ngày nay, nhiều gia đình đã rục rịch làm giỗ từ sáng sớm. Vào ngày giỗ, các gia đình Hàn Quốc tổ chức cúng tế linh đình. Trên bàn thờ bày các món ăn, hoa quả đặc biệt trước bài vị của người đã khuất. Điểm đặc biệt của nghi lễ này là người thực hiện nghi lễ là những người đàn ông trong gia đình (kể cả người con rể cũng là người thực hiện nghi lễ cúng tế tại nhà vợ). Sau khi buổi lễ kết thúc, tất cả các thành viên trong gia đình quây quần ăn uống. Người Hàn Quốc tin rằng khi họ ăn và uống những món ăn được dùng để cúng gia tiên thì tổ tiên sẽ luôn phù hộ và gặp nhiều may mắn. . Tết cổ truyền: Đây là thời điểm quan trọng nhất của người Hàn Quốc, vào ngày này họ tổ chức lễ Cha’rye để tưởng nhớ tổ tiên gia đình. Họ chuẩn bị mọi thứ rất chu đáo và bài trí trên bàn thờ theo một quy tắc nhất định, buổi lễ kết thúc khi người đàn ông cuối cùng làm lễ xong. Sau đó gia đình cùng nhau cử hành thánh lễ và nói về những truyền thống tốt đẹp của gia đình. Trong dịp Tết cổ truyền này, người Hàn Quốc cũng tổ chức đi viếng mộ tổ tiên. Trong khi lễ cúng gia tiên trong nhà thường bao gồm cúng tổ tiên bốn đời trước, bắt đầu từ đời thứ năm, thì cúng vào dịp mổ xẻ tổ tiên mỗi năm một lần. Ngày Thực phẩm Lạnh (Hansic): là ngày thứ 105 sau Đông chí, thường vào khoảng đầu tháng 3 âm lịch. Vào ngày này, người Hàn Quốc chuẩn bị các lễ vật như rượu, trái cây, rau, bánh, gạo, thịt, cá và nhiều loại thực phẩm khác để dâng lên tổ tiên.
Ngày 15 tháng 7 âm lịch được coi là ngày đưa hồn người chết về. Ở Việt Nam, Nhật Bản gọi là ngày xá tội cho người chết, ở Hàn Quốc cũng có ý nghĩa tương tự.
Rằm tháng 8: Chusok – Tết trông trăng: Đây là dịp thờ cúng tổ tiên lớn nhất trong năm của người Hàn Quốc. Vào dịp này, những người đi làm xa đều cố gắng thu xếp công việc để trở về gia đình dự lễ cúng tổ tiên. Đây là dịp để mọi người gặp nhau tại nhà trưởng nam và tổ chức tiệc lớn để mừng một vụ mùa bội thu và hơn hết là để tưởng nhớ công ơn tổ tiên đã phù hộ độ trì cho con cháu trong năm. , mọi người sẽ dâng cúng tổ tiên những sản phẩm của vụ mùa mới thu hoạch được. Họ cung kính dâng lên tổ tiên rượu, trái cây, bánh chay và các loại hạt mới thu hoạch như hạt dẻ, táo, hồng, lê… Món bánh tiêu biểu cho ngày lễ này là bánh bột gạo hình bán nguyệt Songp’yon. Loại bánh này được làm từ gạo mới xay, mịn và xốp. Bên trong bánh có nhân là đậu tây, vừng và hạt dẻ và được hấp trên lá thông mới hái. Cũng trong dịp này, người Hàn Quốc còn đi viếng mộ, bày tỏ lòng kính trọng với tổ tiên bằng cách cúng dường và thực hiện các nghi lễ tạ ơn. Nhân dịp này, người dân cũng tổ chức sửa sang phần mộ với mong muốn làm đẹp, sạch sẽ nơi an nghỉ của tổ tiên.
Việt Nam: Trong phong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt Nam rất coi trọng ngày giỗ (còn gọi là giỗ) thường được tính theo âm lịch (còn gọi là ta ngày). Họ tin rằng đây là ngày con người đi về cõi vĩnh hằng. Không chỉ có ngày giỗ, tục thờ cúng tổ tiên còn được tổ chức thường xuyên vào ngày đầu năm (còn gọi là ngày sóc), ngày rằm (còn gọi là ngày Vọng) và các ngày Tết khác trong năm như: Tết Nguyên đán. Năm mới, Tết Hàn thực, Tết Trung thu, Giao thừa, Giao thừa, v.v. Khi có việc quan trọng trong nhà như cưới vợ, sinh con, làm nhà, xuất hành, thi cử…, người Việt cũng dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và cầu mong tổ tiên phù hộ độ trì, hoặc để tạ ơn khi công việc thành công. Bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt xuất phát từ niềm tin rằng người sống và người chết gắn bó với nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Con cháu thăm viếng, khấn vái tổ tiên. Tổ tiên che chở, dìu dắt hậu thế nên lễ giỗ chính là giao lưu giữa cõi dương và cõi âm.
Sinh nhật (giỗ) là ngày giỗ của một thành viên trong gia đình hàng năm, thường được tính theo âm lịch (còn gọi là ta nhật). Trong các ngày giỗ, có ba ngày đáng chú ý nhất: tiểu tường (giỗ đầu), đại tường (giỗ mọi người qua đời), trừ quần áo (cởi bỏ tang phục). Sinh nhật thường xuyên trong những năm tiếp theo được coi là tốt lành (kỷ niệm).
Trước ngày hội Tiêu Tương, nhiều gia đình cũng thường làm lễ Tiên cáo để xin phép Thống Công cho linh hồn người quá cố về với gia đình làm giỗ. Lễ vật cúng gia tiên và giỗ chạp cần được chuẩn bị thật chu đáo. Theo lệ cũ, trong ngày giỗ đầu, con cháu mặc tang phục, mũ mão, khăn xô. Đồ mã được đưa cho người chết theo quy định: trong lễ tiểu đường, đây là “quà mã” vì người chết phải dùng để cúng cho tà thần tránh quấy nhiễu (quan niệm dân gian về cõi siêu phàm). , đến Vạn sự và Trùng phục (chọn ngày lành sau Vạn sự để đốt đồ tùy táng) lại càng cần nhiều hơn: tất cả đồ sống cho người chết (quần áo, giày dép, xe cộ), thậm chí cả búp bê giấy để hạ xuống thế giới ngầm để phục vụ họ. Sau khi quay (đốt) những mã thông báo này, đổ một chén rượu lên tro vàng để mã thông báo trở thành tiền thật trong thế giới ngầm. Người ta còn đốt một cây sào, một que củi hơ trên lửa để hóa vàng, hay dựng một cây kẹo bên cạnh với lời giải thích “để người già khiêng”.
Đây là một nghi lễ vô cùng quan trọng, bởi tưởng nhớ ông bà tổ tiên là thể hiện lòng thành kính với vong linh những người đã khuất, dù là ngày giỗ lớn hay nhỏ. Chỉ với một cốc nước, một quả trứng và một nén nhang, họ vẫn giữ được lòng hiếu thảo.
Sau ngày giỗ, gia đình thường dọn những thức ăn vừa cúng để cùng nhau ăn, coi như hưởng lộc của tổ tiên. Những người bạn thân cũng được mời đi ăn tối, tức là để chúc mừng sinh nhật.
Ngoài các nghi lễ cúng tế trong gia đình, họ tộc, cũng cần bổ sung vào hệ thống các nghi lễ cúng tế tổ tiên một hình thức tảo mộ. Ngoài việc tảo mộ trong ba ngày (sau khi người thân qua đời), các gia đình, dòng tộc thường đi thăm mộ và cúng tế để sửa sang mồ mả trong Lễ hội Thanh Minh vào tháng Ba. Lễ cúng ở mộ thường đơn giản hơn nhiều so với ở nhà, nhưng trước khi cúng ở mộ người thân thì phải xin phép xuống đất. Việc thăm viếng, tu bổ mồ mả của tổ tiên một mặt là hình thức báo hiếu của con cháu, mặt khác vì quan niệm mồ mả có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của cả gia đình, dòng tộc. Người Việt quan niệm nếu vị trí mộ không tốt, hướng không tốt thì con cháu lụn bại, không phát triển được.
5. Ý nghĩa của việc thờ “Thành Hoàng Làng” và thờ “Anh Hùng Vương”?
5.1. Ý nghĩa của việc thờ “Thành Làng”:
* Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng
Thần làng (Thành Hoàng) là tên gọi chung của vị thần được thờ trong làng xã Việt Nam. Cũng như Táo Công, Thổ Công, Thành Hoàng cai quản, quyết định vận mệnh của một làng và thường được thờ ở đình làng. Tục cúng Thành có nguồn gốc từ Trung Quốc cổ đại, sau khi du nhập vào làng xã Việt Nam đã nhanh chóng ăn sâu vào tâm thức người nông dân Việt Nam, trở nên rất đa dạng và thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Thành Hoàng là người chỉ huy tối cao của làng không chỉ về mặt tinh thần mà cả về đời sống vật chất và sinh hoạt. Các ngài là những vị thần tối cao, có thể chở che, chứng giám cho toàn bộ cuộc sống của dân làng, che chở và phù hộ cho dân làng được no ấm, khỏe mạnh. Vì vậy, suy cho cùng, tục thờ thành hoàng là thờ lệ làng, lệ làng. Thông thường mỗi làng chỉ thờ một Thành Hoàng, nhưng cũng có khi một làng thờ hai, ba hoặc hai ba làng cùng thờ một vị thần. Thành có thể là nam thần hoặc nữ thần tùy theo truyền thuyết của từng vùng. Đó có thể là một vị thần như Phù Đổng Thiên Vương, một vị thần núi như thần Tản Viên Sơn, một vị thần có công với dân với nước như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Yết Kiêu, Dã Tượng… đôi khi là các vị thần quỷ. , ác thần… với nhiều câu chuyện kỳ lạ, đôi khi tưởng chừng vô lý. Nhưng cũng có khi Thành chỉ là một người mà theo quan niệm là người được thần linh giao cho sứ mệnh sau này thay mặt mình cai quản xóm làng, gọi là Thành sống.
* Nghĩa
Tòa thành có một vầng hào quang vô hình như một uy quyền siêu việt, khiến ngôi làng trở thành một hệ thống mạch lạc. Chính sự thờ cúng này là sợi dây liên lạc vô hình, giúp dân làng đoàn kết, chung sống hòa thuận, giữ gìn nếp quê. Vì vậy, các quan cũng như các gia đình trong làng mỗi khi muốn mở hội hay tổ chức việc gì đều phải làm lễ cúng Thành hoàng để xin phép trước.
Dường như sự ngưỡng mộ của người dân đối với Hoàng đế không thua gì sự ngưỡng mộ đối với tổ tiên của ông. Hằng năm, ngày giỗ của Thành hoàng là lễ hội lớn nhất trong làng và thị trấn. Trong các lễ hội, ngoài việc yến tiệc, ăn uống còn diễn ra nhiều nghi thức như tái hiện sự tích Thành Hoàng, tế lễ, rước kiệu hay các trò vui: đấu võ, chọi gà, thi thổi cơm phồng, bơi chải, trận đánh. , đánh cờ người, hát chèo, tuồng… Không khí hân hoan suốt ngày đêm (có nơi hai ba ngày), các cụ già, từ cụ bà đến từng em nhỏ, và cả những người mong đợi nhất, vui nhất là nam nữ đồng lứa, là dịp gặp gỡ, kết bạn, tỏ tình. Các thế hệ con người nối tiếp nhau sinh sôi nảy nở, nhưng Thành cổ thì trường tồn, trở thành minh chứng không thể phai mờ của mỗi làng quê qua bao thăng trầm. 5.2. Ý nghĩa của việc thờ cúng Vua Hùng:
* Tín ngưỡng thờ cúng “Vua Hùng”
Tín ngưỡng thờ cúng các vua Hùng gắn liền với truyền thống thờ cúng tổ tiên của mỗi gia đình người Việt, là tín ngưỡng sâu xa, tồn tại lâu đời như một tín ngưỡng bản địa. Truyền thống này có nguồn gốc ngay từ trước khi xuất hiện ở Việt Nam các tôn giáo như Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo và các tôn giáo khác sau này. Về tín ngưỡng thờ cúng gia tiên không chỉ có ở Việt Nam mà nó còn tồn tại ở các nước khác như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… nhưng ở Việt Nam lại có sự khác biệt. Cả dân tộc Việt Nam đều công nhận các vua Hùng là Quốc tổ và lấy ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm là ngày giỗ Tổ.
Cùng với sự phát triển của đất nước qua hàng nghìn năm lịch sử, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã trở thành một loại hình sinh hoạt văn hóa đặc sắc trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Chính vì vậy tín ngưỡng thờ các vua Hùng tồn tại và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam.
* Nghĩa
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là tín ngưỡng thuộc dòng bản địa với sự giao thoa, hòa hợp của hai nền văn hóa Phật giáo và Nho giáo. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Thờ cúng vua Hùng là thể hiện lòng biết ơn, tôn vinh công lao dựng nước của tổ tiên. Đó là việc làm vừa mang ý nghĩa văn hóa, vừa thể hiện ý nghĩa đạo đức cũng như chứa đựng những ý nghĩa tinh thần cao cả của mỗi người Việt Nam. Với sự linh thiêng và uy nghiêm của tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng, ý thức cộng đồng dần hình thành trong gia đình, củng cố làng xã, rồi phát triển ra khắp cả nước theo quan hệ huyết thống: dòng dõi đỏ đen, con cháu Lạc Hồng…
Giỗ Tổ Hùng Vương là biểu tượng tâm linh để gắn kết lòng người, đoàn kết toàn dân tộc. Nó là biểu tượng của văn hóa nói chung và văn hóa chính trị nói riêng; đồng thời trở thành nhu cầu văn hóa tinh thần của cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được nhà nước tôn vinh, nhằm gắn kết cộng đồng, thông qua các hoạt động văn hóa để giáo dục truyền thống lịch sử và ý thức đoàn kết toàn dân tộc một lòng vì sự trường tồn của nước nhà. Ý thức này được truyền vào máu thịt của mỗi người thông qua các hoạt động văn hóa tinh thần. Biểu tượng Vua Hùng và tín ngưỡng thờ cúng các vua Hùng là sự hội tụ của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Khi ý thức cội nguồn của người Việt được củng cố thì tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương lan tỏa và trở thành niềm tin thiêng liêng của mỗi người – niềm tin vào tổ tiên và sức mạnh thần thánh tiềm ẩn của các vua Hùng. Về với nơi thờ cúng tổ tiên của dân tộc không chỉ là trở về cội nguồn mà còn là hành hương về với tín ngưỡng truyền thống, về sự linh thiêng huyền diệu của tổ tiên, của hồn thiêng sông núi. Cũng chính nhờ lòng thủy chung son sắt trong tâm linh của mỗi người con Việt Nam đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ của các vua Hùng mà trong các thời kỳ lịch sử, sức mạnh của dân tộc càng được củng cố, nhân lên, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ. thử thách. tồn tại và phát triển không ngừng.
Ngày nay, ở nước ta, tín ngưỡng thờ cúng các vua Hùng vẫn không mất đi ý nghĩa sâu sắc. Ngược lại, nó phải được gìn giữ như một truyền thống tốt đẹp, là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Uống nước nhớ nguồn, tri ân các thế hệ tiền nhân, tri ân các anh hùng dân tộc, các danh nhân có công làm rạng danh đất nước, nhân dân ta càng tăng thêm lòng tự hào về Tổ quốc Việt Nam và lòng yêu nước thương dân. Thời gian qua, những việc làm từ thiện, chăm lo cho những người bất hạnh, hoạn nạn, nạn nhân chất độc da cam, người tàn tật là những hành vi nuôi dưỡng truyền thống Vua Hùng, được khuyến khích, động viên.
Đến nay, cả nước có hơn 1.400 đền thờ các vua Hùng và các tướng lĩnh thời Hùng Vương. Mỗi độ xuân về – lễ hội đền Hùng hàng năm, hàng triệu người con đất Việt lại hướng về cội nguồn linh thiêng thắp nén hương lòng tri ân công lao của tổ tiên. Những người ở xa không thể về quê tổ thì đến chùa thắp hương, cúng bái tổ tiên.
Chúng ta sẽ tiếp tục truyền bá giáo dục để mỗi người dân Việt Nam dù ở đâu, làm gì đều có lòng hiếu kính với tổ tiên, đoàn kết xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ đã dạy.
5.3. Mối liên hệ giữa thờ cúng tổ tiên – thần làng – vua anh hùng:
Thờ cúng tổ tiên tồn tại ở ba cấp độ: gia đình – làng xã – đất nước với mức độ đậm nhạt khác nhau. Thờ cúng tổ tiên cũng là một hình thức tín ngưỡng có ý nghĩa rất quan trọng về mặt tổ chức cộng đồng trong xã hội truyền thống. Sống trong xã hội, cả chiều dọc lẫn chiều ngang, con người không thể sống biệt lập, đơn độc. Theo trục dọc phụ hệ, thờ cúng tổ tiên là sự kế thừa liên tục của các thế hệ: ông bà – cha mẹ – bản thân. Mỗi người phải có trách nhiệm thờ cúng bốn đời trước: cao, tổ, tổ, kiểm (ki, cố, ông, cha) và họ cũng tin rằng bốn đời sau họ sẽ được con cháu thờ phụng. Theo trục ngang, tục thờ cúng tổ tiên gắn con người vào mối quan hệ Nhà – Làng – Nước. Là một tập thể – bao gồm những người sống và những người chết có quan hệ huyết thống và thờ cúng cùng một ông tổ, có sức mạnh đảm bảo giá trị tinh thần của mỗi thành viên trong làng – nước
Từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đến tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là sự kết tinh và phát triển những giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Những giá trị này giúp bồi đắp tinh thần yêu nước thương nòi, đạo lý uống nước nhớ nguồn, trước sau như một; xây dựng đời sống tinh thần phong phú trong thời đại mới. Không gì khác, chính những giá trị đó đã làm nên sức sống bất diệt của dân tộc Việt Nam trước bao biến cố trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Tuổi trẻ chúng ta là hạt giống của đất nước, chúng ta hãy tiếp tục phát huy tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và phong tục thờ cúng Thành Hoàng cũng như thờ cúng Vua Hùng của dân tộc ta, góp phần làm phong phú thêm nét đẹp văn hóa của nước nhà.
Nguồn: https://docungsaigon.vn
Danh mục: Tục lệ cúng